Lễ vía Bà Thiên Hậu
https://www.facebook.com/chuabathienhaudautieng/
1. Đối tượng thờ cúng
Bà Thiên Hậu được dùng với nhiều mỹ từ tôn kính như: Thiên Hậu Thánh Mẫu, Thiên Hậu nương nương là đối tượng giàu thần tích và linh ứng trong tín ngưỡng người Hoa. Truyền tụng, Bà Thiên Hậu có tên là Lâm Mặc, sinh ngày 23 tháng 3 (âm lịch) năm 960, tại huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc (đời nhà Tống). Khi Bà được sinh ra có đám mây ngũ sắc và hương thơm bao phủ khắp nhà.
Từ khi còn nhỏ, Lâm Mặc đã có tài tiên đoán rất chính xác về thời tiết, giúp cho ngư dân trong vùng tránh được nhiều tai ướng trên nghề đi biển. Một hôm, Lâm Mặc đang ngồi dệt lụa cùng với mẹ ở nhà, bỗng nhiên mắt nhắm nghiền lại, hai tay đưa ra trước như cố níu kéo một vật gì. Một lát sau khi mở mắt ra, Lâm Mặc ứa nước mắt nói với mẹ rằng cha và hai anh đang gặp nạn ngoài biển nhưng Bà không cứu được cha. Quả nhiên, mấy ngày sau, hai người anh sống sót trở về, còn người cha thì bặt âm vô tín sau cơn bão biển.
Bà mất ngày 19 tháng 2 (âm lịch) năm 987. Sau khi mất, Bà rất hiển linh. Người dân đi biển truyền kể thường gặp Bà khoác bộ y phục màu nâu, bay lượn trên biển để cứu những thuyền bè lâm nạn. Bà cũng từng hiển hiện cứu được những đoàn chiến thuyền và sứ thuyền của các Hoàng đế Trung Hoa khi gặp nạn. Vì vậy, các đời Hoàng đế Trung Hoa đã phong tặng Bà nhiều danh hiệu cao quý. Đời nhà Nguyên, Bà được sắc phong là Thiên Phi nương nương, đến năm 1682, vua Khang Hy (nhà Thanh) gia phong Bà làm Thiên Hậu Thánh Mẫu, tôn thờ như bậc hiển thánh.
Tại Đồng Nai, Bà Thiên Hậu được thờ chính và tùng tự trong nhiều cơ sở tín ngưỡng của người Hoa. Tượng Bà Thiên Hậu được tạo hình từ nhiều chất liệu 1, tư thế ngồi, nét mặt phúc hậu, lỗ tai có đeo bông lấp lánh. Tượng được khoác áo choàng màu đỏ thêu kim tuyến, hoặc đính kim sa hình rồng phụng, đầu đội mão Cửu Long có thêu hoa trang trí nhũ vàng và rèm châu rủ xuống trước trán, hai bên mão có hai tua dài màu vàng rủ xuống qua vai.
2. Lễ vía ngày sanh Thiên Hậu
Ngày 23 tháng 3 (âm lịch) hàng năm là ngày vía chính của Bà Thiên Hậu. Lễ vía Bà Thiên Hậu thường chỉ diễn ra trong một ngày.
Trước ngày 23, tại bàn thờ Bà được dọn dẹp sạch sẽ và được thưng hương, đăng, hoa quả. Các loại hoa chưng thường là hoa huệ, hoa cúc trắng, hoa cúc vạn thọ.
Vào ngày cúng chính, người ta dâng lễ vật cho Bà. Lễ vật cúng thường là heo quay được đặt nằm úp xuống mâm, 4 chân choãi ra hai bên, đầu quay về phía điện thờ, hai lỗ tai cắm hai bông giấy đỏ, gà luộc chín cắm bông giấy đỏ ở (nếu không có đủ con heo thì chỉ tượng trưng thủ vĩ / đầu heo). Ngày xưa lễ vía Bà Thiên Hậu thường phải cúng đủ “tam sanh” gồm heo, gà, dê làm thịt để sống. Nay tục lệ cũng như vật dâng cúng Bà được giản lược hơn 1.
Khoảng 8 giờ nghi thức cúng lễ bắt đầu. Ba người trong Ban Trị sự cơ sở tín ngưỡng được cử làm Chánh tế. 2 Họ mặc áo dài thụng, đầu đội nón bánh tiêu, mỗi người cầm 3 cây nhang lớn khấn niệm trước bàn thờ Thiên Hậu và các bàn thờ phối tự. Nội dung khấn niệm hàm ý ca ngợi công đức của Bà Thiên Hậu và cầu Bà gia ân độ trì, cưú giúp tất cả mọi người.
Những người tham gia vào lễ vía cầm 1 cây nhang nhỏ khấn vái theo các vị Chánh tế. Sau khi dâng 3 tuần trà và 3 tuần rượu, một Chánh tế thâu nhang các người dự lễ đem cắm vào các bàn thờ Thiên Hậu.
Tại Thiên Hậu Cổ Miếu (phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa), vào ngày vía sanh Thiên Hậu, có mời thầy cúng chủ trì buổi lễ. Trước đây, còn có tục đốt pháo mừng, dâng bộ xiêm mão (tượng trưng bằng giấy với kích cỡ lớn) cho Bà.
Sau khi khai lễ xong, một hồi chuông trống được gióng lên. Đây là thời điểm bắt đầu cho mọi người đến vía Bà. Những người dâng lễ vật, cúng viếng Bà Thiên Hậu rất đông. Từng cá nhân hay tập thể dâng lễ vật cho Bà. Lễ vật dâng cúng không có những qui định cụ thể mà tuỳ thuộc ở tấm lòng và điều kiện người đến cúng nhưng phải có nhang đèn, tiền mã vàng bạc là không thể thiếu. Khi dâng lễ, người cúng thể hiện lời cầu khấn của mình.
Lễ vật sau khi cúng, thân chủ giữ một phần đem về nhà với quan niệm để “hưởng lộc thánh”. Trong khi cúng lễ, thân chủ có thể mua ngay tại miếu những “vòng nhang cầu an” lớn. Tên của thân chủ được ghi trên tấm giấy đỏ đính kèm vòng nhang, treo đốt bên tại miếu thờ.
Những người tham dự lễ vía Bà, thường thỉnh nhận các tấm giấy đỏ đóng triện son, nội dung chữ Hán: “Thánh Mẫu tọa trấn”, “Hợp gia bình an”, “Bảo hộ an khang” với quan niệm “rước vía Bà” về thờ tại nhà.
Sau các nghi cúng Bà, tại miếu bắt đầu hội đấu giá đèn lồng. Số lượng thường có 9 đèn lồng (người Hoa quan niệm số 9 là con số tốt). Thầy cúng cầm từng đèn lồng thực hiện nghi thức cúng. Sau đó, từng đèn được đặt tên, xướng lên câu thành ngữ mang ý nghĩa theo số thứ tự để mọi người đấu theo sở cầu. Hội đấu đèn diễn ra rất sôi nổi và hào hứng, cuốn hút nhiều người tham gia. Số tiền đấu giá đèn lồng được Ban quản lý dùng vào công việc hoạt động miếu và các công tác xã hội.
3. Lễ cúng chay Bà Thiên Hậu
Lễ hội diễn ra tại cơ sở tín ngưỡng Thiên Hậu Cổ Miếu/ Miếu Tổ Sư, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa. Đáo lệ 3 năm, lễ hội được tổ chức một lần; thời gian kéo dài 4 ngày từ ngày 10 đến 13 tháng 6 (âm lịch). Đây là lễ hội có tính chất đa hợp: vía Bà Thiên Hậu, cúng Tổ nghề với mục đích cầu an, cầu siêu. Trong lễ cúng cầu siêu do các pháp sư khoa nghi Đạo giáo cùng với giàn nhạc lễ chuyên trách thực hiện một hệ thống tiết mục, nghi lễ độc đáo.
+ Công tác chuẩn bị và cách bài trí khu vực hành lễ
Đây là một lễ hội lớn, cho nên công tác chuẩn bị rất quan trọng. Vào năm định kỳ, ngay từ lễ vía sanh Bà Thiên Hậu (23 tháng 3 âm lịch), Ban Quản trị miếu thông báo tổ chức lễ và phân công những bộ phận phụ trách các phần việc liên quan.
Ban tổ chức được bầu và thực hiện ngay việc đăng ký danh sách những người tham gia đóng góp kinh phí tổ chức lễ hội. Những người đăng ký có thể góp tiền trước hoặc đăng ứng. Tất cả nguồn kinh phí được tổng kết trước ngày bắt đầu lễ (10/3 - âm lịch). Mức đóng góp tùy có tính chất tự nguyện, tùy điều kiện người đăng ký. Người Hoa quan niệm càng bỏ nhiều tiền vào lễ làm chay, càng được nhiều phúc của Bà và các thần nên có nhiều người tham gia góp phần. Mức chi phí cho lễ hội rất cao, lên tới hàng trăm triệu đồng.
Trước ngày lễ tiến hành, những bài trí trong khu vực hành lễ phải được hoàn tất. Khắp nơi từ trong miếu đến ngoài cổng nhiều đèn lồng, hoa kết, cờ lễ được treo lên tạo một cảnh quan nhiều màu sắc độc đáo. Tại sân miếu, một cây phướng được dựng lên. Cây phướng gồm ba cây tre cao thẳng (trên 10m), dựng thành một hàng, ngọn hương thẳng lên trời. Giữa ba cây tre có chín thanh ngang nối nhau vừa giữ cho chúng đứng vững vừa tạo hình như một chiếc thang bắc lên cao.
Trên cây phương treo 52 ngọn đèn lồng màu trắng, chữ Hán màu đỏ (mỗi đèn có một chữ), treo thành 5 dây song song với nhau tượng trưng cho năm bậc thần thánh, Tổ nghề được thờ trong miếu. Dây đèn lồng ở giữa treo cao hơn và dài nhất (gồm 20 đèn), phía trên có biểu tượng cờ lệnh và mão, chữ đề “Cung chúc Ngũ Đăng Tiên Sư bửu đán”. Bốn dây còn lại đối xứng hai bên (mỗi dây 8 đèn) với các dòng chữ “ QuốcTrì Tiên Sư”, “Lỗ Ban Tiên Sư”, “Thiên Hậu Thánh Mẫu” và “Quan Thánh Đế Quân”. Cây phướng là điểm báo cho các vị thần linh, Tổ nghề chứng giám lễ cầu an, cầu siêu.
Dưới cây phướng có bàn hương án. Đối diện bên phải có lều bày hương án và hình nộm Ông Tiêu phết màu sắc rực rỡ. Ông Tiêu với hình dáng cao to, đầu đội mão, hai tay cầm thẻ bài, cờ lệnh, mắt quắc uy nghi, lưỡi thè ra. Ông Tiêu được quan niệm là một biến thể của Quan Âm để chiêu tập tất cả các loại cô hồn. Hai bên Ông Tiêu có là các hình nhân Thổ Địa, Tướng Quân và Thủy Quân có chức năng hộ vệ.
Trong sân còn có dựng đàn có rạp che chắn bốn bên. Đây chính là đàn chay nơi các đạo sĩ thực hiện các nghi cúng tế. Trong rạp được trang trí bàn thờ, tranh ảnh, cờ trướng, liễn đối, nhang đèn, hương hoa... như một điện thờ. Phía trên là tranh bức vẽ Tam Thánh gồm: Thái Thượng Lão Quân, Thông Thiên Giáo Chủ và Hải Triều Thánh Nhân (những vị được xem là Giáo chủ của Đạo Giáo do Lão tử sáng lập). Phía dưới Tam Thánh là một điện thờ phủ vải đỏ, nơi đặt các bài vị các vị Tổ, bài vị thỉnh từ các miễu, chùa và bài vị của trăm họ được thỉnh dự lễ. Dưới điện thờ là bàn hương án và các đồ tế khí của đạo sĩ dùng cúng lễ. Hai bên rạp dán các bức mô tả Thập Điện Diêm Vương (10 cửa ngục âm phủ). Bên cạnh, còn có lều che, bày bàn hương án có hình nộm tượng Phán Quan và các vị lính hầu đội mũ chóp nhọn màu vàng, xử án ở địa phủ.
Trước cửa chùa, hai hình nộm Quan Văn và Quan Võ uy phong trấn giữ Thánh môn. Trong chùa, cảnh trang trí với màu đỏ chủ đạo với hàng trăm đèn lồng treo khắp xà cột. Các bàn thờ, đồ cúng, kiệu rước, giá biểu bài vị, đồ bát bửu sắp xếp ngăn nắp. Tất cả trong tư thế sẵn sàng cho việc lễ khi tiến hành.
Nội dung các nghi thức chính lễ hội
Ngày thứ nhất tổ chức lễ thỉnh sắc Bà Thiên Hậu. Lễ được bắt đầu vào giờ tốt trong buổi sáng với chuông trống gióng lên báo hiệu.
Vị đạo sĩ chủ tế mặc áo choàng đỏ tay cầm nhạc khí vừa gõ vừa tụng kinh Thái Thượng Lão Quân mời Bà Thiên Hậu và các thần thánh cho phép, chứng giám lễ làm chay. Những người được phân công phụ tế, giúp lễ mặc áo dài gấm, đội nón bánh tiêu có lưỡi trai cầm nhang cung kính vái lạy theo đạo sĩ. Sau khi khấn, đạo sĩ cầm xấp kim phong bảng màu đỏ tụng kinh xin keo đi thỉnh sắc Bà. (Kim phong bảng là danh sách tên những người đóng góp kinh phí tổ chức lễ) Những người được chọn hành lễ vía Bà theo tiêu chí tuổi hợp, đạo đức, đóng góp công, cuả...mặc áo dài có băng vải đỏ bắt chéo qua được phép phục vụ Bà từ lúc khởi lễ cho đến chung cuộc. Tham dự trong thành phần này là một niềm vinh dự cho nhiều người.
Khi xin keo được, một người đi thâu nhang thưng lên bàn thờ Tổ, một người châm rượu và đốt giấy mã vàng bạc tạ ơn. Bài vị Tổ Sư, Thiên Hậu Thánh Mẫu và Quan Thánh Đế Quân được rướcra kiệu. Kiệu Bà được chạm khắc sắc sảo, có hai tầng, sơn đen thếp vàng và trang trí các dây băng đỏ rực rỡ. Trên kiệu, đặt bát nhang lớn và hoa tươi, trái cây để thỉnh bài vị. Trước khi khởi kiệu, các đội lân, rồng múa nghinh sân lễ và kiệu Bà.
Đòan rước thỉnh theo lộ trình từ Miếu Thiên Hậu đến miếu Cây Quăn (nơi thờ Bà trước đây- cách khoảng 1 km). Đi đầu là các đội lân, rồng và đoàn người mang cờ hội, cờ trướng, dàn nhạc ngũ âm. Tiếp sau là bàn hương án do 4 người khiêng, những người cầm bát bửu 1 và 7 cặp biển bài vị “Tiêu Chinh”, “Quỳ Bí” “Thiên Hậu Nguyên Quân”, “Lỗ Ban Tiên Sư”, “Quốc Trì Cung”, “Ngũ Đinh Tiên Sư” và “Hiệp Thiên Thượng Đế” (tức Quan Thánh Đế Quân). Theo sau là đòan 4 người hóa trang thầy trò Tam Tạng thỉnh kinh rồi đến vị đạo sĩ chánh tế. Sau vị chánh tế là cặp lọng đỏ, kiệu Bà, kiệu được khiêng cẩn trọng. Tiếp sau kiệu Bà đòan người nhiều thành phần đông đảo theo lễ rước.
Tại Miếu Cây Quăn, khi xin keo thỉnh sắc xong, đoàn rước trở ra đi vào đến thỉnh bài vị Tiên Cô Nương Nương (miếu Bà Thánh trong khu du lịch Bửu Long) bài vị Thổ Công (tại Miếu thờ cổng khu du lịch) rồi trở về miếu. Tại các điểm thỉnh sắc, đạo sĩ chánh tế chủ trì và Ban tế tự thực hiện các nghi cúng trong khi đoàn rước chờ bên ngoài.
Trên lộ trình đoàn rước đi qua, nhiều gia đình sắp sẵn lễ vật cúng nghênh đón Bà, sau đó hòa vào đoàn rứơc về miếu.Tất cả các bài vị thỉnh rước được đặt lên tầng cao nhất của điện thờ. Sau đó, vị chánh tế và thành viên Ban Tổ chức thực hiện việc thỉnh Bà từ Thiên Hậu Cung (một cơ sở thờ Thiên Hậu của người Hoa bang Sùng Chính, phường Hòa Bình) về miếu.
Sau khi cung thỉnh sắc hoàn tất, trước sân miếu, các đội võ thuật biểu diễn các trò hội như múa đao, múa võ... tạo nên không khí vui nhộn. Sau đó, miếu bắt đầu đón khách đến lễ Bà. Số người tham dự viếng Bà Thiên Hậu trong ngày đầu lễ rất đông đảo.
Chiều tối, bắt đầu lễ khai đàn, khai quang điểm nhãn các tượng thờ và các đồ vật cúng trong chùa. Lễ khai đàn do vị đạo sĩ chủ tế1, và 6 phụ tế thực hiện tại đàn chay. Mỗi người cầm một nhạc khí như: trống, chập chõa, phèng la, kèn, mõ... phụ họa theo lời tụng của chủ tế. Vị chủ tế cầm kim phong bảng và 3 cây nhang vừa tụng kinh vừa làm phép nhiều lần. Sau hai tuần dâng rượu, vị chủ tế đốt giấy mã vàng bạc và dùng đồ binh khí 1 nhúng vào chén rượu (trong có lá bưởi) để trấn đàn. Sau đó, chủ tế dẫn đòan người đi khắp khu vực hành lễ để thực hiện nghi tẩy uế và trở về đàn chay làm phép cuối, đốt sớ.
Tại các bàn hương án, vị chủ tế và hai phụ tế (một người gõ trống, một người đánh chập chõa) tụng kinh bắt đầu nghi thức khai quang điểm nhãn. Chủ tế cầm con gà trống còn sống 2 nhấc lên cao, đầu gà chúc xuống trước bàn hương án, dùng móng tay cấu vào mồng gà cho máu nhỏ vào chén rượu (hòa lẫn với thần sa có vài lá bưởi). Vị chủ tế cầm cây cọ tàu cán dài nhúng vào chén rượu chấm các đồ vật, các tượng trong khu vực hành lễ. Một đạo sĩ phụ tế cầm một cây nhang dài khoảng chấm nhang vào các vị trí, các đồ vật được chủ tế điểm nhãn. Sau khi khai quang điểm nhãn, vị chủ tế trở về bàn hương án điểm nhãn và đốt ba con ngựa giấy (trên lưng có ba vị tướng quân mặc áo màu vàng, đỏ và xanh) đại diện thiên binh, sứ giả mời các thần linh về dự lễ Bà. Tại đàn chay, các đạo sĩ tiến hành đọc kinh.
Ngày thứ hai tổ chức khai kinh cầu an1. Từ sáng sớm, một bộ phận giúp lễ và đội lân các gia đình rước các lễ vật cúng (mâm lễ, tháp giấy, bánh...)các gia đình tham gia cúng về miếu. Chọn giờ tốt, vị chủ tế bắt đầu khai kinh cầu an tại đàn chay và các bàn hương án dưới cây phướng, bàn thờ Ông Tiêu. Sau mỗi đoạn kinh, chủ tế và cộng đoàn tham dự cầm nhang vái tạ và đốt giấy mã vàng bạc. Tiếp đến, đòan cúng lễ đến hương án ông Phán Quan tụng kinh Quan Âm, Địa Tạng kinh và Vãn Sinh kinh để cầu siêu cho cô hồn. Chủ tế và cộng đoàn đến cúng tại các bàn thờ trong miếu và sau đó trở lại đàn chay. Các đạo sĩ tiếp tục đọc kinh cầu an. Lúc này, những người tham dự cầm bông huệ cung kính chầu nghinh cho đến khi đốt giấy mã, thắp nhang kết thúc.
Chiều tối, các đạo sĩ nhập đàn, tụng các kinh Thái Thượng Lão Quân, Thái Nguyệt kinh, tiếp tục làm phép trấn đàn, tẩy uế. Từ đàn chay, các vị đạo sĩ đến bàn hương án trước miếu làm lễ Ngũ môn chắc tướng. Sau một tuần trà, tuần rượu, các vị đạo sĩ thay nhau làm nghi dâng sớ, múa cờ lệnh, tụng kinh, đăng hương. Tuần tự, các vị thứ nhất (tượng trưng cho hành Mộc) cầm sớ và cờ lệnh màu xanh; vị thứ hai (tượng trưng cho hành Hỏa), cầm sớ và cờ lệnh màu đỏ; vị thứ ba (tượng trưng cho hành Kim) cầm sớ, cờ lệnh màu trắng; vị thứ tư (tượng trưng cho hành Thủy) cầm cờ lệnh màu xanh dương; vị đạo sĩ chủ tế (tượng trưng cho hành Thổ) cầm kiếm lệnh và cờ lệnh màu vàng thực hiện nghi đăng.
Vị chủ tế tiếp tục làm nghi tẩy uế trước 4 con ngựa (có 4 vị tướng quân), múa điệu bắt ấn, tụng kinh và đốt giấy mã. Một người rót lần lượt ba chung rượu lên 4 con ngựa và bốn đạo sĩ làm động tác cưỡi ngựa đi vòng quanh bàn hương án 4 vòng theo chiều ngược kim đồng hồ.Lần lượt mỗi đạo sĩ cầm sớ tụng kinh và kết thúc vị chủ tế dâng sớ báo với các thần thánh . Sau cùng 4 đạo sĩ cầm 4 con ngựa đi theo chiều kim đồng hồ vòng quanh bàn hương án 4 vòng ra cổng chùa hỏa mã.
Buổi chiều, tại các bàn hương án, bàn thờ và các vị trí quan trong trong khu vực hành lễ được các đạo sĩ tiếp tục đọc kinh cầu an, cầu siêu. Buổi tối, các đạo sĩ đọc kinh cầu an tại đàn chay lần thứ ba.
Ngày thứ ba là chính lễ với nhiều nghi thức lễ hội như khai Kim phong bảng, đấu giá đèn lồng, phóng đăng, phóng sanh, hát bội, bắc cầu Bà, lập đàn chay, cúng thí...
Buổi sáng, các đạo sĩ thay phiên nhau tụng kinh cầu an khắp các nơi hành lễ. Khu vực sân lễ, các đội lân múa hòa vào với dàn nhạc ngũ âm tạo nên một không khí náo nhiệt, cuốn hút nhiều người.
Ngay từ ngày đầu khai lễ, Kim phong bảng được xếp lại thành 3 xấp (tượng trưng cho phúc-lộc-thọ) luôn để trên khay trong các lễ cúng. Vào nghi khai mở, có hàm ý cầu cho những người đậu tiền phụng cúng được phúc lộc thọ). Đạo sĩ chủ tế thắp ba cây nhang trường tụng kinh, và dán Kim phong bảng lên tường và tiến hành nghi thức tẩy uế, khai quang điểm nhãn. Sau đó, vị chủ tế xướng tên và tụng kinh cầu phúc cho những người trong Kim phong bảng. Kết thúc, những người trên dâng nhang bái tạ ơn Thiên Hậu.
Sau lễ khai Kim phong bảngbảng, tại miếu tổ chức hội đấu đèn lồng. Số lượng đấu là chín đèn. Khi đấu, thầy cúng đọc những câu thành ngữ tương ứng với thứ tự đèn. Bất kỳ ai thấy hợp với sở cầu thì đấu giá. Thông thường, đèn đầu tiên và cuối cùng được nhiều người đấu giá cao. Mỗi đèn có khi giá đấu lên hàng chục triệu đồng.
Không khí đấu đèn rất sôi nổi, hào hứng. Những người tham gia hội vỗ tay, cổ vũ nồng nhiệt mỗi khi giá đèn được nâng lên cao trong tiếng trông hội dồn dập. Ai đấu thắng thì chiếc đèn ngay lập tức được ghi tên chủ nhân. Tục đấu đèn lồng là một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng trong tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa.
Tại Thiên Hậu Cổ Miếu, (kể từ lễ chay năm 1995 cho đến nay, Ban tổ chức không còn tổ chức tục đấu đèn). Vào hội chay, miếu sắm nhiều loại đèn lồng, cờ, trướng treo sẵn. Sau lễ khai quang điểm nhãn thì mọi người đều có thể thỉnh tùy theo mỗi loại. Hình thức này được mọi người tham dự lễ hưởng ứng gia đông đảo vì ai cũng có khả năng “rước lộc” Bà trong mà số tiền không cao.
Buổi chiều, vào nghi xin keo tổ chức phóng đăng, phóng sanh cầu siêu cho thập loại cô hồn. Vị pháp sư chính 1 (mặc áo choàng màu vàng, đội mão giống Địa Tạng, có hai tua dài thả phía trước) tụng kinh, thắp nhang xin phép thần thánh khởi hành đòan rước kiệu đến bến sông tổ cức. Kiệu Bà được trang trí rất nhiều dây băng đỏ, hai bông vải tròn lớn, hai lọng đỏ, hai ngọn thủy đăng, hai đèn lồng trắng. Khi khởi kiệu, đội lân múa chào khắp sân lễ. Đòan rước gồm toán người cầm cờ lễ, đội nhạc trống,bàn hương án, những người cầm bát bửu, pháp sư và 4 vị phụ tế (mặc áo màu đỏ), đòan kiệu Bà và những người tham dự. Lộ trình của đoàn rước từ miếu tới bến sông Tân Thành 2 (thuộc khu phố 3, phường Bửu Long) - địa điểm phóng đăng, phóng sanh.
Tại bến sông, bày một đàn chay, trên có hương án đầy đủ nhang, đèn cầy, bông cúc bông huệ tưới, trái cây, 3 chung rượu. Khi kiệu Bà đến, người ta thỉnh bát nhang, các bài vị đặt lên đàn. Trước đàn là một sân giấy mã và 360 bộ giấy áo trải tới bến sông. Xen kẽ cắm những nén nhang, đặt 18 chén đồ chay cúng cô hồn (gồm 5 món: bún gạo, tàu hũ, củ cải muối, đậu que xào, đậu trắng - đây là 5 món bắt buộc) và một số món chay khác. Trước bàn hương án người ta đặt một con ngựa giấy màu vàng 1, đèn hoa, chim cá đểphóng sanh. Pháp sư thượng đàn, tung nắm nhang thẻ đang cháy khai hỏa bãi giấy mã, tụng kinh cầu siêu. Lễ phóng đăng bắt đầu khi pháp sư niệm chú. Ba mươi sáu chiếc đèn hoa được thả sông. Tiếp theo, pháp sư khai lễ phóng sanh, 2 người trên bờ thả chim se sẻ, người xuống bến sông thả cá trê, cá lóc.
Khi bãi giấy cháy gần hết, người ta đốt con ngựa giấy. Vị pháp sư niệm chú, tung gạo và bông cúng xuống đàn. Lúc này có nhiều người tranh hau đồ vật cúng thí với quan niệm những thứ này đã được Bà chứng, phù hộ. Từ trên đàn, pháp sư rung chuông kết thúc lễ và đòan rước trở về miếu.
Buổi tối, bắt đầu nghi thức lập giàn chay và lễ bắc cầu cho Bà. Người ta trải tấm vải đỏ rộng, dài từ bàn hương án đàn chay vào tới điện thờ chính trong miếu. Các vị đạo sĩ cầu kinh, những người phụ tế rắc đều bông vạn thọ, cánh bông huệ kín mặt cầu. Bài vị trăm họ (còn được gọi là “phúc lộc đình”) được thỉnh từ trên đàn chính đến trước bàn hương án đàn chay để cầu phúc. Phúc lộc đình là thùng gỗ tròn, vừa được sơn đỏ, bên trong chứa gạo, trên cắm bài vị “Bản mạng nguyên thần” ,ba mặt phất giấy kiếng trắng, mái hình chóp. Bên cạnh, có bộ tam khí gồm:cây kiếm lệnh, cây thước mộc và một chiếc gương tròn 1. Bàn hương án bày đủ các bộ lễ cúng từ cặp đèn cầy lớn, cây đèn dầu Thất tinh bằng đồng, bình bông, mâm trái cây, lư nhang, ba chung trà, ba chung rượu và Phúc lộc đình.
Sau 3 giờ tụng niệm, dâng ba tuần trà,ba tuần rượu, tẩy uế Phúc lộc đình, vị đạo sĩ hành lễ nghi bắc cầu. Hai người lớn tuổi thắp bảy ngọn đèn trên cầy Phúc lộc đình. Mỗi người đứng một bên cầu thỉnh Phúc lộc đình vào trong điện thờ chính một cách cẩn trọng, không cho ngọn đèn nào bị tắt 1. Việc rước Phúc lộc đình có ý nghĩa rước phúc lộc đến với trăm họ. Sau khi Phúc lộc đình đi qua, hai người đi sau từ từ cuốn cầu lại. Lúc này, người tham dự tranh nhau bông tươi rắc trên với ý niệm hưởng lộc Bà. Phúc lộc đình và vải cầu cuốn đặt trên điện thờ Tổ (đúng một tháng sau mới mở ra, lúc đó gạo và bông được phong vào những bao giấy đỏ để bá tánh đến thỉnh lộc) . Người thỉnh đem trộn với gạo ở nhà nấu cơm ăn, bông thì pha cùng trà uống với quan niệm như thế sẽ được phúc của Bà
Từ 2 giờ sáng ngày thứ tư, bắt đầu khai lễ cúng thí, xô giàn. Một bàn hương án bày trước đàn chay. Trên có hai đài cắm đèn cầy, một bình bông, ba chung trà, ba chung rượu, một dĩa gạo, một dĩa muối, một dĩa tàu hũ ki. Đặc biệt, có ba tháp đồ chay được làm bằng cải xanh, bánh bao chay và xôi nếp trắng 2. Trên đầu mỗi tháp có ba vòng tròn nhỏ dần lên (tượng trưng cho Tam thế Phật giáo) và Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Trên đỉnh mỗi tháp có hình tượng bàn tay Phật bắt ấn.
Chọn giờ tốt, vị pháp sư (mặc áo choàng màu vàng, đội mão Địa Tạng) thượng đàn tụng kinh cầu. Pháp sư vừa tụng vừa múa hai tay bắt ấn, sau đó rung chuông (thức tỉnh các cô hồn tề tựu về dự chay siêu thoát), tung giấy mã trong tiếng chuông, trống, chập chõa... tấu lên. Sau ba tuần trà, ba tuần rượu, pháp sư ra ngoài cổng cúng thí.
Giữa cây phương và Ông Tiêu bày đầy giấy mã và 3.600 bộ giấy áo (gấp mười lần ở bến sông phóng sanh) 1 Trên có nhiều đèn cầy, bạch lạp, hoa tạo nên một cảnh huyền ảo giữa lúc trời chưa sáng hẳn. Chung quanh bày nhiều tháp đồ chay do các gia đình đem tới cúng thí. Khi bãi giấy mã được khai hỏa cũng là lúc nghi xô giàn bắt đầu. Vị pháp sư vừa tụng kinh, làm phép đốt 3.600 bộ giấy áo. Người ta lần lượt đem hình nộm Ông TiêuPhán Quan và các hình nhân khác ra đốt. Cây phướng được hạ xuống và đưa 52 chiếc đèn lồng ra đốt. Pháp sư quăng tháp bánh bao ra ngoài thí cô hồn, (hai tháp rau cải và xôi nếp tượng trưng choPhật được giữ lại trả cho miếu). Nghi xô giàn cuốn hút nhiều người tham gia, họ tranh nhau những đồ cúng thí, mảnh vỡ từ hình nộm Ông Tiêu, đèn lồng, tháp bánh trong cảnh náo nhiệt, vui nhộn.
Trở vào miếu, pháp sư vừa tụng kinh kết thúc lễ cầu siêu. Những đồ vật dùng trong lễ như: Kim phong bảng, tranh, ảnh, liễn trang trí được đặt lên vị sứ giả cuỡi ngựa bằng giấy màu đỏ2 đem ra sân khai hỏa.
Buổi sáng, bắt đầu cúng nhả mặn. Trong miếu sọan sẵn những mâm cúng mặn gồm: một con dê đực làm thịt để sống cúng trước bàn thờ Quan Đế 1, một con heo làm thịt để sống cúng trước bàn thờ Tổ và một con heo quay đỏ cúng trước bàn thờ Bà Thiên Hậu. Trên các bàn thờ còn có gà luộc và các loại trái cây, nhang đèn. Trên bàn thờ chính nơi thờ Tổ đặt Phúc lộc đình, cây đèn dầu thất tinh (bảy ngọn), hai đài nến, bông, nhang trường và chò trái cây. Năm vị thầy cúng tụng kinh, gõ nhạc khí phụ họa lời cúng tạ ơn Bà và các thần thánh. Sau đó, đòan hành lễ rước đến đàn chay khai lễ thỉnh an bài vị. Hình thức như ngày thỉnh sắc, đòan rước theo lộ trình đưa bài vị các vị thần an vị nơi mình được thờ trước khi về chứng lễ. Trong những đêm diễn ra lễ hội, nhiều đòan hát đến diễn những tuồng tích xưa, thu hút nhiều người xem. Trở về miếu, các thầy cúng tụng kinh kết thúc cho toàn lễ chay.
*
Lễ hội Bà Thiên Hậu (phường Bửu Long), có tính đặc trưng cho tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của cộng đồng người Hoa ở Biên Hòa. Đây là lễ hội Bà có quy mô lớn nhất ở Đồng Nai và thu hút nhiều người dân tham dự.
Những nghi thức lễ cho thấy có sự dung hợp của Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo; trong đó vai trò của Đạo giáo chủ đạo với lực lượng đạo sĩ hành lễ. Nghi lễ của Đạo giáo được dùng trong lễ cầu an, cầu phúc; nghi lễ cầu siêu, cúng thí cô hồn thì lại mang tính chất Phật giáo. Tính dung hợp nhiều lễ nghi trong hội lễ miếu Bà Thiên Hậu là một hiện tượng khá độc đáo.
Nguồn: Mô và Tắc ( người Hoa chợ lớn )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét